Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Phan Bội Châu và Phong trào Đông Du | ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM - VOV.VN

Như chúng tôi đã miêu tả ở bài “ Quan hệ Việt-Nhật: Những chặng đường phát triển”,  quan hệ Việt-Nhật ở từng tuổi đã để lại nhiều dấu ấn làm nền tảng cho sự phát triển của quan hệ hai nước sau này. Tiếp theo tuổi trước cho đến đầu thế kỷ 20 (cụ thể năm 1905) phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng mở ra giai đoạn phát triển mới trong tư duy của người Nhật đối với Việt Nam. 
 

 “Cơ duyên” của Phong trào Đông Du 

Năm 1868 thời kỳ Minh Trị (Meiji) ở Nhật Bản bắt đầu. Thời kỳ này là thời kỳ đổi mới của Nhật bản với việc tiến hành thí nghiệm nền chính trị thực dụng để tái định nghĩa thể chế Hoàng Đế.

Nhật mở cửa toàn diện và đặc biệt đã khuyến khích việc học tiếng Anh. Nhưng cũng trong thời kỳ này, Nhật Bản đứng trước sự đe doạ của phương Tây. Nên chi, việc cách tân thảy sơn hà cũng nhằm mục đích chống lại các thần thế bên ngoài. Nhưng trước sự ngoan cường của dân chúng Nhật Bản, lần lượt Trung quốc, Sa Hoàng (Nga) đều bị thảm bại. Chiến thắng đó của Nhật Bản ảnh hưởng sâu rộng tới toàn thế giới.

Phố Hàng Đào, Hà Nội những năm đầu thế kỷ XX



Ở Việt Nam vào thời kỳ này các phong trào khởi nghĩa của nhiều nhà yêu nước bị thất bại liên tục, dân ta lại phải tiếp kiến sống trong cảnh nô lệ, lầm than.

Nhà yêu nước Phan Bội Châu (1867-1940) sáng lập ra đã sáng lập ra Duy Tân Hội nhằm thúc đẩy phong trào yêu nước trong nước. Tuy nhiên, để tìm ra con đường cứu nước, phóng thích nhân dân lại là một việc khó khăn.

Lúc này cũng là thời kỳ các tài liệu tân văn can dự tình hình thế giới, các phong trào yêu nước được tuyên truyền rộng rãi. Phan Bội Châu cũng không ngoài ảnh hưởng của các tài liệu này. Khác với những nhà yêu nước khác ông đã chọn cho mình con đường đi riêng, con đường phóng thích dân tộc Phan Bội Châu.

Phan Bội Châu với một niềm tin sẽ dựa vào Nhật Bản để kháng chiến chống Pháp đã lập ra phong trào Đông Du (đi về phía Đông). Với mục đích học tập Nhật Bản, tháng 1/1905, lần trước nhất một số sĩ phu Việt Nam do Phan Bội Châu đứng đầu sang Nhật. Từ lời giới thiệu của Lương Khải Siêu, sĩ phu Việt Nam đến gặp một số nhà yêu nước, ủng hộ Việt Nam như Okumura, Kashiwabara Buntaro, bác sĩ Asaba Sakitaro.

Trong các cuộc gặp gỡ với những nhà yêu nước Nhật Bản, Phan Bội Châu có nhẽ đã không mấy “thỏa nguyện” khi họ không có ý muốn giúp Việt Nam về mặt quân sự, mà họ chỉ hứa lấy danh nghĩa dân Đảng Nhật, giúp học trò Việt Nam ăn học.

Phan Bội Châu cũng đã đồng ý với đề nghị của các bạn Nhật, thực hành việc gửi học trò Việt Nam sang học tập tại Nhật Bản, tạo lập phong trào cách mệnh sau này.

 


 Đông Du và tư tưởng phóng thích dân tộc 

 

  

Từ năm 1906, phong trào Đông Du đi vào hoạt động càng ngày càng rầm rộ trên cả ba miền sơn hà, hàng loạt các tác phẩm của Phan Bội Châu được dịch từ chữ Hán ra chữ Quốc ngữ, gửi về nước. Từ năm 1907-1908 là thời kỳ phong trào Đông Du phát triển mạnh nhất với trên 200 lưu học trò.

Cụ Phan Bội Châu



Cũng trong lúc này hai nhân vật quan trọng của Đảng Tiến Bộ đang cầm quyền ở Nhật Bản, Okuma Shigenobu và Thủ tướng Inukai Tsuyoshi khuyên Phan Bội Châu nên cổ động thanh niên ra nước ngoài học tập để sau này về giúp nước. Từ sự ủng hộ này mà các thanh niên Việt Nam rất chú tâm vào việc học tập, hy vọng sau này cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Chương trình học tập ở đây khá đa dạng, sáng và trưa dạy tiếng Nhật, “học kiến thức phổ thông”, buổi chiều dạy “kiến thức quân sự”, đặc biệt là “tập luyện thao tác quân sự”. Khi học trò Việt Nam vào học trong các trường của Nhật Bản, thì chương trình, luật lệ học ở trường đều do người Nhật quy định, còn ngoài trường đều do ta tự quản lí. Phan Bội Châu và các đồng chí của ông đã lập ra Hội Việt Nam Công Hiến (tháng 10/1907) có chương trình riêng.

Phan Bội Châu làm Tổng lý kiêm Giám đốc và Kỳ ngoại hầu Cường Để làm Chủ tịch Hội. Dưới quyền bính chung của Ban lãnh đạo, Hội được chia ra thành 4 Bộ, mỗi Bộ gánh vác từng mặt hoạt động của lưu học sinh.

Các ủy viên của Bộ kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc thu vào, chi ra và các việc trù bị. Song song, họ cũng là những người giỏi vận động, tranh thủ sự giúp đỡ cả trong và ngoài nước. Việt Nam Công Hiến rất chú trọng tổ chức những buổi “sinh hoạt chính trị” giúp học trò rèn luyện tư tưởng, đạo đức cách mệnh.

Tại các chương trình nghị sự, có mặt đông đủ học viên thì Hội trưởng và Tổng lý huấn thị trước như khuyến cáo các vấn đề có hệ trọng đến sinh hoạt, học tập, có khi bình giảng nội dung một cuốn sách, nhắc nhỏm nhiệm vụ của các thành viên trước giang sơn. Sau đó, mọi người tự do đàm luận, góp ý các vấn đề đặt ra, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

Hệ thống tổ chức bố trí nhân sự và điều hành hoạt động ở đây tựa như một “Chính phủ tạm thời”.

Phan Bội Châu đã từng phân vua: “ Tôi nghiễm nhiên như một quan Công sứ của nước Nam ở nước ngoài nhưng kiêm cả chức Đốc kinh lý nữa. Giếng sâu tay ngắn, việc lớn tài hèn, tôi vẫn lo sợ công việc tôi đảm đang không kham. Đồng thời, chúng tôi dựng lên Tân Việt Nam Công Hiến bắt chước như một Chính phủ lâm thời của nước Nam ở hải ngoại. Tuy là cách thức sắp đặt còn dối nhưng có ảnh hưởng tới dân khí trong nước mau lắm  ”. 

Cũng chính vào lúc này, thực dân Pháp đã tìm ra nhiều dắt mối của phong trào, chúng câu kết với Nhật để thúc đẩy đàn áp. Tháng 9/1908, khi các học sinh Trường Chấn Võ đang làm lễ tốt nghiệp thì Bộ Nội vụ Nhật hạ lệnh giải thể tổ chức học trò Việt Nam, tịch thu các văn kiện, đuổi học trò ra ngoài nước Nhật. Tháng 2/1909, Phan Bội Châu, Cường Để cũng bị trục xuất khỏi nước Nhật.

Trước tình hình đó, Phan Bội Châu và các đồng chí của Cụ phải về lánh nạn ở Trung Quốc, qua Xiêm hoạt động một thời gian với mục đích chờ đợi những thời cơ mới.

Bia tưởng niệm do Phan Bội Châu dựng tại Nhật để ghi nhớ công lao của người bạn lớn Asaba Sakitaro


Tình hình lúc này rất khó khăn, kinh phí để cho lưu học trò về nước trở thành vấn đề lớn đối với Phan Bội Châu. Đúng lúc này, bác sĩ Asaba Sakitaro đã ủng hộ 1700 yên. Số tiền này đã cưu mang nhiều học trò Việt Nam. Không chỉ lúc này, trước đó bác sĩ Asaba cũng đã viện trợ rất nhiều về mặt vật chất đối với việc tạo lập phong trào Đông Du của Phan Bội Châu.

Chính sự trợ giúp vô tư lự và tinh khiết này mà sau đó khi “trời yên biển lặng”, Phan Bội Châu cùng một số anh em khác đã sang tận quê hương của Asaba (lúc này đã mất) để dựng bia tưởng niệm vị ân nhân này. Văn bia có đoạn viết: “ Hảo hơn xưa nay, nghĩa đầy trong ngoài. Ông giúp như trời, Tôi chịu như bể, chí Tôi chưa thành, Ông không chờ Tôi. Lòng này đau thương, đến ức vạn năm. Tất thảy người của Hội Việt Nam Quan phục xin nghi lại  ”. 

Tấm bia này vừa trình bày tấm tình thật của Phan Bội Châu đối với những người đã giúp mình, vừa trình bày mối quan hệ sâu sắc giữa dân chúng hai nước.

Năm 2003 nhân kỷ niệm 85 ngày Phan Bội Châu dựng bia tưởng vọng, Hội yêu nước của tỉnh OWA đã long trọng tổ chức lễ kỷ niệm này. Một số nhà khoa học Việt Nam cũng sang dự lễ. Năm 2010 nhân kỷ niệm 105 phong trào Đông Du, phía Nhật Bản, Hội Asaba Việt Nam tổ chức kỷ niệm Phan Bội Châu và tặng cho Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phù điêu và mô hình tấm bia Asaba.

Tiếp nhận bia tưởng niệm Phan Bội Châu từ Hiệp hội Asaba, Nhật Bản



Trong thời kì ở tại Nhật Bản, Phan Bội Châu ngoài những bức thư biểu hiện tình cảm của bản thân đối với Nhật Bản, kêu gọi sự trợ giúp của nhân dân Nhật Bản đối với phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam. Ngoài ra ông đã viết rất nhiều tác phẩm miêu tả tinh thần yêu nước, sự bái phục đối với các bạn Nhật Bản.

Có thể liệt kê một số tác phẩm tiêu biểu sau:

 Ai Việt điếu Điền viết năm 1906, nêu lên những ích lợi của tình đoàn kết Việt Nam với các tỉnh giáp biên cương của Trung Quốc. Tác phẩm này được viết ra nhằm tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của lưu học sinh và các nhà hoạt động tỉnh Vân Nam đối với hoạt động của người Việt Nam ở Nhật.

 Hải ngoại huyết thư (Sơ biên, Tục biên) viết năm 1906, in ở Tỉnh Yokohama. Vào năm 1908, tác phẩm này được tái bản, với mục địch tuyên truyền tư tưởng yêu nước, phản đối thực dân Pháp. Đáng tiếc tác phẩm bị cảnh sát Nhật trưng thu, đem đốt vì bị liệt vào tác phẩm “kích động nguy hiểm”.

Tác phẩm Kính cáo toàn quốc phụ lão viết năm 1906, kêu gọi các bậc phụ lão trong nước tích cực vận động ủng hộ du học trò Nhật Bản. Tác phẩm này cũng sớm được chuyển về tuyên truyền trong nước.

 Tân Việt Nam viết năm 1907, nói về Mười điều sung sướng và Sáu điều hy vọng đối với nước Việt Nam mới. Hình ảnh nước Việt Nam mới được biểu hiện trong tác phẩm này là hình ảnh Nhật Bản đương thời. Đây là tác phẩm được viết với ý thức lạc quan nhất của Phan Bội Châu.

 Đề tỉnh quốc dân hồn viết năm 1907, kêu gọi các từng lớp: sĩ, nông, công, thương noi gương Nhật Bản, hiểu biết vai trò nghĩa vụ của mình cống hiến cho nước nhà.

    Việt Nam quốc sử khảo viết vào cuối năm 1908, được Soransha, Tokyo phát hành vào đầu năm 1909. Đây là cuốn lược khảo viết theo cách mới về lịch sử Việt Nam. Trong tác phẩm này, Phan Bội Châu đưa ra nhiều khái niệm mới về quốc gia-quốc dân, dân quyền, văn minh… phản ảnh một bước phát triển mới trong nhận thức và tư tưởng của ông.

Tuốt những tác phẩm của Phan Bội Châu trong thời kỳ này ngoài việc lên án chế độ thực dân Pháp, còn tuyên truyền mạnh mẽ tư tưởng, con đường phóng thích dân tộc, cổ vũ tầng lớp thanh niên học tập. Song song, biểu lộ mối thâm tình giữa những người yêu nước Nhật Bản đối với những người tình nước Việt Nam.

Phong trào Đông Du tuy thất bại, nhưng đó là quá trình đổi mới tư duy của các nhà cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Đặc biệt, trong lịch sử phát triển quan hệ Việt-Nhật, đây là giai đoạn trình diễn.# Sự gắn bó của những con người “đồng chủng”, “đồng tông”./.

 Bài 3:  Những bước thăng trầm của quan hệ Việt-Nhật 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét